SỰ VÔ CẢM ĐẾN NHẪN TÂM CỦA CON NGƯỜI
PHÚC ÂM: Ga 18, 1 - 19, 42
"Sự Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
"Sự Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
LM: Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Gioan.
XV1: Khi ấy, Chúa Giêsu đi với môn đệ sang qua suối Xêrông, ở đó có một khu vườn, Người vào đó cùng với các môn đệ. Giuđa, tên phản bội, đã biết rõ nơi đó, vì Chúa Giêsu thường đến đấy với các môn đệ. Nên Giuđa dẫn tới một toán quân cùng với vệ binh do các thượng tế và biệt phái cấp cho, nó đến đấy với đèn đuốc và khí giới. Chúa Giêsu đã biết mọi sự sẽ xảy đến cho Mình, nên Người tiến ra và hỏi chúng:
LM: "Các ngươi tìm ai?"
XV1: Chúng thưa lại:
XV2: "Giêsu Nadarét".
XV1: Chúa Giêsu bảo:
LM: "Ta đây".
XV1: Giuđa là kẻ định nộp Người cũng đứng đó với bọn chúng. Nhưng khi Người vừa nói "Ta đây", bọn chúng giật lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi chúng:
LM: "Các ngươi tìm ai?"
XV1: Chúng thưa:
XV2: "Giêsu Nadarét".
XV1: Chúa Giêsu đáp lại:
LM: "Ta đã bảo các ngươi rằng Ta đây! Vậy nếu các ngươi tìm bắt Ta, thì hãy để cho những người này đi".
XV1: Như thế là trọn lời đã nói: Con chẳng để mất người nào trong những kẻ Cha đã trao phó cho Con. Bấy giờ Simon Phêrô có sẵn thanh gươm, liền rút ra đánh tên đầy tớ vị thượng tế, chém đứt tai bên phải. Đầy tớ ấy tên là Mancô. Nhưng Chúa Giêsu bảo Phêrô rằng:
LM: "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén Cha Ta đã trao lẽ nào Ta không uống!"
XV1: Bấy giờ, toán quân, trưởng toán và vệ binh của người Do-thái bắt Chúa Giêsu trói lại, và điệu Người đến nhà ông Anna trước, vì ông là nhạc phụ của Caipha đương làm thượng tế năm ấy. Chính Caipha là người đã giúp ý kiến này cho người Do-thái: để một người chết thay cho cả dân thì lợi hơn. Còn Phêrô và môn đệ kia vẫn theo Chúa Giêsu. Môn đệ sau này quen vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu vào trong sân vị thượng tế, còn Phêrô đứng lại ngoài cửa. Vì thế, môn đệ kia là người quen với vị thượng tế, nên đi ra nói với người giữ cửa và dẫn Phêrô vào. Cô nữ tì gác cửa liền bảo Phêrô:
XV2: "Có phải ông cũng là môn đệ của người đó không?"
XV1: Ông đáp:
XV2: "Tôi không phải đâu".
XV1: Đám thủ hạ và vệ binh có nhóm một đống lửa và đứng đó mà sưởi vì trời lạnh, Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về môn đệ và giáo lý của Người. Chúa Giêsu đáp:
LM: "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ, Tôi thường giảng dạy tại hội đường và trong đền thờ, nơi mà các người Do-thái thường tụ họp, Tôi không nói chi thầm lén cả. Tại sao ông lại hỏi Tôi? Ông cứ hỏi những người đã nghe Tôi về những điều Tôi đã giảng dạy. Họ đã quá rõ điều Tôi nói".
XV1: Nghe vậy, một tên vệ binh đứng đó vả mặt Chúa Giêsu mà nói:
XV2: "Anh trả lời vị thượng tế như thế ư".
XV1: Chúa Giêsu đáp:
LM: "Nếu Ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó; mà nếu Ta nói phải, thì tại sao anh lại đánh Ta?"
XV1: Rồi Anna cho giải Người vẫn bị trói đến cùng vị thượng tế Caipha. Lúc ấy Phêrô đang đứng sưởi. Họ bảo ông:
XV2: "Có phải ông cũng là môn đệ người đó không?"
XV1: Ông chối và nói:
XV2: "Tôi không phải đâu".
XV1: Một tên thủ hạ của vị thượng tế, có họ với người bị Phêrô chém đứt tai, cãi lại rằng:
XV2: "Tôi đã chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với người đó sao?"
XV1: Phêrô lại chối nữa, và ngay lúc đó gà liền gáy.
Bấy giờ họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến pháp đình. Lúc đó tảng sáng và họ không vào pháp đình để khỏi bị nhơ bẩn và để có thể ăn Lễ Vượt Qua. Lúc ấy Philatô ra ngoài để gặp họ và nói:
XV2: "Các ngươi tố cáo người này về điều gì".
XV1: Họ đáp:
XV2: "Nếu hắn không phải là tay gian ác, chúng tôi đã không nộp cho quan".
XV1: Philatô bảo họ:
XV2: "Các ông cứ bắt và xét xử theo luật của các ông".
XV1: Nhưng người Do-thái đáp lại:
XV2: "Chúng tôi chẳng có quyền giết ai cả".
XV1: Thế mới ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói trước: Người sẽ phải chết cách nào. Bấy giờ Philatô trở vào pháp đình gọi Chúa Giêsu đến mà hỏi:
XV2: "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?"
XV1: Chúa Giêsu đáp:
LM: "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?"
XV1: Philatô đáp:
XV2: "Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?"
XV1: Chúa Giêsu đáp:
LM: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng nước tôi không thuộc chốn này".
XV1: Philatô hỏi lại:
XV2: "Vậy ông là Vua ư?"
XV1: Chúa Giêsu đáp:
LM: "Quan nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi".
XV1: Philatô bảo Người:
XV2: "Chân lý là cái gì?"
XV1: Nói lời này xong, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ:
XV2: "Ta không thấy nơi người này có lý do để khép án. Nhưng theo tục lệ các ngươi, ta sẽ phóng thích cho các ngươi một tù nhân vào dịp Lễ Vượt Qua. Vậy các ngươi có muốn ta phóng thích Vua Do-thái cho các ngươi chăng?"
XV1: Họ liền la lên:
XV2: "Không phải tên đó, nhưng là Baraba".
XV1: Baraba là một tên cướp. Bấy giờ Philatô truyền đem Chúa Giêsu đi mà đánh đòn Người. Binh sĩ kết một triều thiên bằng gai nhọn đội lên đầu Người, và chúng mặc cho Người một áo đỏ. Rồi chúng đến gần Người và nói:
XV2: "Tâu Vua Do-thái!"
XV1: Và vả mặt Người. Philatô lại ra ngoài và nói:
XV2: "Đây ta cho dẫn người ấy ra ngoài cho các ngươi để các ngươi biết rằng ta không thấy nơi người ấy một lý do để kết án".
XV1: Bấy giờ Chúa Giêsu đi ra, đội mão gai và khoác áo đỏ. Philatô bảo họ:
XV2: "Này là Người".
XV1: Vừa thấy Người, các thượng tế và vệ binh liền la to:
XV2: "Đóng đinh nó vào thập giá! Đóng đinh nó vào thập giá!"
XV1: Philatô bảo họ:
XV2: "Đấy các ngươi cứ bắt và đóng đinh ông vào thập giá, phần ta, ta không thấy lý do nào kết tội ông".
XV1: Người Do-thái đáp lại:
XV2: "Chúng tôi đã có luật, và theo luật đó nó phải chết, vì nó tự xưng là Con Thiên Chúa".
XV1: Nghe lời đó Philatô càng hoảng sợ hơn. Ông trở vào pháp đình và nói với Chúa Giêsu:
XV2: "Ông ở đâu đến?"
XV1: Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại câu nào. Bấy giờ Philatô bảo Người:
XV2: "Ông không nói với ta ư? Ông không biết rằng ta có quyền đóng đinh ông vào thập giá và cũng có quyền tha ông sao?"
XV1: Chúa Giêsu đáp:
LM: "Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho, vì thế nên kẻ nộp tôi cho quan, mắc tội nặng hơn".
XV1: Từ lúc đó Philatô tìm cách tha Người. Nhưng người Do-thái la lên:
XV2: "Nếu quan tha cho nó, quan không phải là trung thần của Xêsa, vì ai xưng mình là vua, kẻ đó chống lại Xêsa".
XV1: Philatô vừa nghe lời đó, liền cho điệu Chúa Giêsu ra ngoài rồi ông lên ngồi toà xử, nơi gọi là Nền đá, tiếng Do-thái gọi là Gabbatha. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu ngày chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Philatô bảo dân:
XV2: "Đây là vua các ngươi".
XV1: Nhưng họ càng la to:
XV2: "Giết đi! Giết đi! Đóng đinh nó đi!"
XV1: Philatô nói:
XV2: "Ta đóng đinh vua các ngươi ư?"
XV1: Các thượng tế đáp:
XV2: "Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Xêsa".
XV1: Bấy giờ quan giao Người cho họ đem đóng đinh. Vậy họ điệu Chúa Giêsu đi. Và chính Người vác thập giá đến nơi kia gọi là Núi Sọ, tiếng Do-thái gọi là Golgotha. Ở đó họ đóng đinh Người trên thập giá cùng với hai người khác nữa: mỗi người một bên, còn Chúa Giêsu thì ở giữa. Philatô cũng viết một tấm bảng và sai đóng trên thập giá. Bảng mang những hàng chữ này: "Giêsu, Nadarét, vua dân Do-thái". Nhiều người Do-thái đọc được bảng đó, vì nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh thì gần thành phố, mà bảng viết thì bằng tiếng Do-thái, Hy-lạp và La-tinh. Vì thế các thượng tế đến thưa với Philatô:
XV2: Xin đừng viết "Vua dân Do Thái", nhưng nên viết: "Người này đã nói: 'Ta là vua dân Do-thái'".
XV1: Philatô đáp:
XV2: "Điều ta đã viết là đã viết".
XV1: Khi quân lính đã đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá rồi thì họ lấy áo Người chia làm bốn phần cho mỗi người một phần, còn cái áo dài là áo không có đường khâu, đan liền từ trên xuống dưới. Họ bảo nhau:
XV2: "Chúng ta đừng xé áo này, nhưng hãy rút thăm xem ai được thì lấy".
XV1: Hầu ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Chúng đã chia nhau các áo Ta và đã rút thăm áo dài của Ta". Chính quân lính đã làm điều đó. Đứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng:
LM: "Hỡi Bà, này là con Bà".
XV1: Rồi Người lại nói với môn đệ:
LM: "Này là Mẹ con".
XV1: Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói:
LM: "Ta khát!"
XV1: Ở đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói:
LM: "Mọi sự đã hoàn tất".
XV1: Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.
LM: (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
XV1: Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người Do-thái xin Philatô cho đánh dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào của Người". Lời Kinh Thánh khác rằng: "Họ sẽ nhìn xem Đấng họ đã đâm thâu qua".
Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do-thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo tục khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.
LM: Đó là lời Chúa.
Suy niệm :
Trong sứ điệp Mùa Chay 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô cảnh báo về lối sống đang diễn ra trong xã hội và thế giới hôm nay. Đó là lối sống dửng dưng vô cảm, thiếu quan tâm đến người khác. Ngài nhắc lại câu chuyện Cain và Abel trong Cựu Ước. Cain vì ghen tỵ, nghĩ là Thiên Chúa thương Abel hơn mình, nên đã tìm cách thủ tiêu Abel. Sau khi gây ra điều ác, Cain lẩn trốn Thiên Chúa, nhưng ánh mắt của Thiên Chúa vẫn dõi theo anh. Chúa hỏi anh : Cain ơi ! Em ngươi đâu ? Cain đã trả lời hết sức nhẫn tâm : Tôi không biết ! Tôi không phải là người canh giữ em tôi !
Đức Thánh Cha cho thấy sự vô tâm, vô cảm đang ảnh hưởng trên nhiều cá nhân. Hơn nữa, nó còn mang tầm mức xã hội, quốc gia và thế giới. Nó thể hiện qua việc con người chỉ lo tìm kiếm phần lợi về cho mình mà không quan tâm đến hậu quả mình gây ra hoặc những điều đang xảy ra cho anh em. Lý do là vì khi con người cảm thấy an toàn, thoải mái trong sự hưởng thụ của mình, thì người ta quên những vấn đề của người khác cùng những đau khổ, bất công mà họ phải chịu… Những lúc ấy, con người rơi vào tình trạng dửng dưng.
Thái độ ích kỷ, dửng dưng trở nên hết sức nguy hiểm khi trở thành một lối sống trong xã hội. Ngày nay, con người tỏ ra dửng dưng với các sự kiện đang xảy ra, coi thường chân lý và sự thật, không lên tiếng phản đối những bất công để bảo vệ công lý. Từ dửng dưng với tha nhân sẽ dẫn đến dửng dưng với Thiên Chúa.
Bài Thương khó hôm nay cho thấy tình yêu hy sinh đến cùng của Thiên Chúa. Vì yêu con người, muốn cho con người hạnh phúc, Chúa Giêsu đã chấp nhận một cuộc hành hình đau đớn và cuối cùng là cái chết nhục nhã trên thánh giá. Cũng qua bài thương khó này, tác giả còn cho thấy sự dửng dưng, vô cảm của con người, của xã hội trước bản án bất công mà giới lãnh đạo đã cố tình áp đặt trên một người công chính.
Trước hết là sự dửng dưng, vô cảm của các môn đệ. Các ông là những người gần Chúa Giêsu nhất, đáng lẽ các ông phải là người hiểu và cảm thông với Chúa hơn mọi người. Thực tế thì ngược lại, các ông chỉ quan tâm đến bản thân, mà không hề đồng cảm với Chúa Giêsu khi Ngài phải đối diện với cuộc thương khó. Trong lúc Chúa đau khổ đến nỗi có thể chết được, thì các tông đồ vẫn còn say trong giấc ngủ, mắt các ông còn mơ màng. Khi Giuda dẫn người Do Thái đến bắt Chúa, Chúa Giêsu hết sức bênh vực cho các tông đồ, Ngài còn đề nghị với chúng : Các anh bắt tôi thì cứ bắt, nhưng hãy để cho những người này đi. Còn các tông đồ như vừa giật mình thức giấc, các ông phản ứng một cách yếu ớt. Cuối cùng, tất cả đều bỏ trốn, mặc cho Chúa Giêsu một mình bị quân dữ bắt trói và lôi đi.
Sự vô tâm của Giuda đã dẫn đến sự nhẫn tâm, tàn ác khi anh ta vì chút ít tiền, đã chấp nhận làm môi giới để quân lính bắt Thầy mình, đẩy Thầy vào con đường chết. Biết trước Thầy sẽ bị bắt, nhưng anh vẫn thản nhiên bước đến chào và hôn Thầy. Cái hôn này không còn là dấu chỉ biểu lộ tình yêu thương nồng ấm, nhưng đã trở thành cái hôn lạnh lùng, thành dấu chỉ của sự phản bội. Việc làm này của Giuda đã góp phần làm tổn thương Chúa Giêsu, làm cho đau khổ của Ngài không chỉ là nỗi đau thể xác, mà còn là nỗi đau thấu trong tâm hồn khi bị phản bội bởi chính người mình yêu quý.
Thứ đến là sự dửng dưng, vô cảm của những người lãnh đạo Do Thái. Thánh Gioan cho thấy, những người lãnh đạo chỉ muốn tìm mọi cách để đạt được mục đích của mình là loại trừ Chúa Giêsu. Vì thế, họ đã bất chấp công lý, từ chối sự thật. Họ biết rõ Chúa Giêsu không làm gì sai trái. Họ muốn giết Chúa chỉ vì Ngài đã lên tiếng bênh vực chân lý, chỉ ra những sai trái của họ, khiến họ cảm thấy khó chịu. Hơn nữa, các thượng tế và luật sĩ đã coi mình như những người nắm giữ giáo lý, sở hữu chân lý. Vì thế, họ không chấp nhận một người nào khác nói về Thiên Chúa. Vậy nên khi Chúa Giêsu xuất hiện, Ngài nói về một Thiên Chúa là Cha yêu thương, là Thiên Chúa nhân từ, thì các thương tế và luật sĩ đã tìm cách loại trừ Chúa. Họ thản nhiên tuyên bố : Nó phải chết !
Từ các thượng tế và luật sĩ, sự dửng dưng vô cảm đã lan truyền đến dân chúng. Trong số những người đứng biểu tình, la hét trước dinh Philatô đòi giết Chúa Giêsu, có nhiều người đã từng biết Chúa Giêsu, nghe Ngài giảng dạy. Thậm chí, nhiều kẻ đã từng được ăn bánh hoặc được hưởng phép lạ Chúa làm cho họ. Thế nhưng, trước dinh Philatô, họ thản nhiên kêu gào : Giết đi ! Giết nó đi ! Đóng đinh nó vào thập giá !Sự dửng dưng, vô cảm của đám đông dân chúng đã trở thành nhẫn tâm, thành dã man khi họ quyết tâm loại trừ người công chính là Chúa Giêsu để chấp nhận kẻ gian ác là Baraba. Họ chấp nhận từ chối Thiên Chúa để làm nô lệ cho đế quốc khi họ kêu gào :Chúng tôi chỉ có một vua là Cesare ! Cuối cùng, họ hồ hởi đi theo để xem một con người chịu đau khổ, bị hành hạ và bị kết án tử hình giống như thể mình là những người vô can. Trong đám đông dân chúng, có kẻ còn buông những lời độc địa, mỉa mai Đấng đã từng làm ơn cho mình.
Con người thường tỏ ra dửng dưng, vô cảm và đối xử nhẫn tâm với nhau, nhưng Thiên Chúa thì không bao giờ như thế. Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người và những đau khổ của họ. Thiên Chúa đã nhìn thấy con người đang phải đau khổ trong tội và bị kìm hãm, trói buộc bởi ma quỷ. Ngài đã tìm đến với con người, xoa dịu những đau khổ thể xác, chữa trị những vết thương trong tâm hồn và giành lại tự do, hạnh phúc cho con người.
Mặc dù chịu một bản án bất công và dã man nhưng Ngài không một lời than trách. Ngài vẫn tạo những cơ hội giúp con người nhìn lại đời sống và hành động của mình. Ngài đã đặt cho các tông đồ câu hỏi để giúp các ông thức tỉnh : Đến giờ này mà anh em còn ngủ được sao ? Ngài cũng hỏi Giuda : Ngươi định dùng cái hôn để nộp con người sao ? Trong lúc các môn đệ bỏ trốn hết vì sợ, Chúa Giêsu vẫn nhớ đến các ông và tin tưởng ở các ông. Ngài đã trả lời cho thầy thượng tế rằng : Điều tôi đã nói, ông cứ hỏi những người đã nghe tôi. Họ biết tôi đã nói gì.
Trên cây thập giá, khi bị treo cùng với hai tên trộm, Chúa Giêsu vẫn quan tâm tới lời cầu xin của tên trộm lành : Khi nào về Nước Trời, xin nhớ đến tôi ! Chúa Giêsu đã hứa với anh : Ngay hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với tôi. Ngài quan tâm đến những tên lính, vì mệnh lệnh mà hành khổ Ngài, bằng lời cầu xin : Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng lầm không biết ! Trong giờ phút đau khổ nhất, Chúa Giêsu còn quan tâm đến Mẹ Maria và các môn đệ khi trao phó Mẹ cho Thánh Gioan : Đây là con của Bà và đây là Mẹ con !
Nghe bài Thương khó của chúa Giêsu, chúng ta nhận ra rằng : Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người, chỉ có con người thường dửng dưng, vô cảm với nhau và dửng dưng, vô cảm với Thiên Chúa. Sự dửng dưng, vô cảm ấy bắt đầu từ lối sống ích kỷ, chỉ nghĩ đến bản thân, đến lợi ích cá nhân mà bỏ quên người bên cạnh. Lối sống này cũng đang diễn ra ngay trong các gia đình, khi các thành viên chỉ nghĩ đến mình mà không nghĩ đến những người khác. Có nhiều người cha, người mẹ hoặc con cái bị bỏ quên trong gia đình, bị gạt ra khỏi sự quan tâm, chăm sóc, có khi còn lạnh lùng gây đau khổ cho nhau. Trong xã hội, nhiều người đã cố tình làm ngơ trước sự dữ, sự ác ; nhiều người đã cộng tác với những bất công mà loại trừ những anh chị em đau khổ.
Nguyên nhân sâu xa của lối sống dửng dung này là vì con người dửng dưng với Thiên Chúa, nên họ cũng dửng dưng, vô cảm với anh em. Một khi con người loại trừ Thiên Chúa ra khỏi tâm hồn mình thì chắc chắn sự dữ và sự ác sẽ đến trong tâm hồn. Một khi trái tim con người đóng kín trước lời mời gọi của Thiên Chúa thì cũng sẽ đóng kín trước những nhu cầu của anh chị em.
Cử hành cuộc thương khó của Chúa Giêsu hôm nay, xin Chúa biến đổi tâm hồn và cuộc sống chúng ta. Xin cho mỗi người trở nên mềm lòng trước tình yêu của Thiên Chúa. Xin cho chúng ta có một trái tim thật mềm để biết chạnh thương, rung động trước những đau khổ của anh em, và có một tâm hồn thật nhạy bén để biết quan tâm và cảm thông. Amen.
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí – Gp. Xuân Lộc
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét